Phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ: Gỡ “điểm nghẽn” logistics

27/11/2022

Đông Nam Bộ đảm nhận phần lớn số lượng hàng hóa và khối lượng hàng container cả nước nhưng hiện có nhiều “điểm nghẽn”, nổi bật là cơ sở hạ tầng, vấn đề quan trọng tác động đến hoạt động logistics.

Nội dung

Tắc nghẽn cơ sở hạ tầng và chưa có cơ chế phù hợp là những nút thắt cần tháo gỡ để phát triển logistics (dịch vụ hậu cần) vùng Đông Nam Bộ.

Nội dung trên được nêu ra tại Hội thảo "Logistics vùng Đông Nam Bộ: Chia sẻ và góc nhìn từ chuyên gia," do Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và Hiệp hội Logistics Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức sáng 23/11 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh) là một trong những cửa ngõ trung chuyển quốc tế.

Ách tắc lưu thông hàng hóa

Theo thống kê, vùng Đông Nam bộ có khoảng 14.800 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, chiếm 49,2% tổng số doanh nghiệp logistics cả nước.

Số lượng doanh nghiệp logistics tập trung chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh với hơn 11.000 doanh nghiệp, tỉnh Bình Dương là gần 1.700 doanh nghiệp và Đồng Nai có hơn 1.200 doanh nghiệp.

Không chỉ giữ vai trò đầu tàu kinh tế, vùng Đông Nam Bộ là khu vực tập trung hạ tầng logistics quan trọng, đảm nhận phần lớn số lượng hàng hóa và khối lượng hàng container cả nước.

Sử dụng hiệu quả nguồn lực để thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa

Tuy nhiên, Đông Nam Bộ hiện có nhiều "điểm nghẽn," nổi bật là cơ sở hạ tầng, vấn đề quan trọng tác động đến hoạt động logistics.

Theo ông Huỳnh Văn Cường, Phó Chủ tịch Hiệp hội Logistics Thành phố Hồ Chí Minh (HLA), Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Cảng Sài Gòn, đây là "điểm nghẽn" dẫn đến nhiều thách thức cho doanh nghiệp logistics.

Hạ tầng giao thông đường bộ chưa đáp ứng nhu cầu bởi đường nhỏ, hẹp, tải trọng hạn chế (đặc biệt đối với hàng container và hàng công trình); quá nhiều giao lộ gây tắc nghẽn, xung đột giao thông.

"Trong khi giao thông đường bộ chưa đáp ứng tải trọng phù hợp giao thương hàng hóa, kết nối cảng với các khu công nghiệp, nhà máy, kho hàng thì vận tải đa phương thức chưa phát huy hiệu quả vì thiếu kết nối giữa đường sắt-đường bộ-đường thủy nội địa. Việc đầu tư các phương thức này thiếu đồng bộ, thường vênh nhau và thiếu sự thống nhất cả về mục tiêu, kế hoạch thời gian thực hiện," ông Cường đánh giá.

Toàn vùng hiện chỉ có tuyến cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây. Các dự án quy hoạch đường vành đai và trục giao thông kết nối đang chậm triển khai.

Về đường thủy, vùng có sáu tuyến nội địa tuy nhiên nhiều cầu vượt sông trên các tuyến chính không bảo đảm tĩnh không, khoang thông thuyền (cầu Bình Triệu, cầu Bình Phước).

Với Thành phố Hồ Chí Minh, các tuyến vành đai kết nối với các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ chưa được đầu tư đúng mức, ảnh hưởng tiêu cực đến giao thông, vận chuyển hàng hóa hai chiều.

Hệ thống đường bộ, đặc biệt là hệ thống vành đai 2, vành đai 3, vành đai 4, chưa hoàn chỉnh; thường xuyên tắc nghẽn các tuyến đường bộ đến cảng Cát Lái, ICD Trường Thọ.

Sân bay Tân Sơn Nhất quá tải, các ga hàng không đã hết công suất.

Theo ông Nguyễn Công Luân, Phó Trưởng phòng Quản lý xuất nhập khẩu (Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh), hoạt động logistics tại Thành phố Hồ Chí Minh đang gặp phải nhiều trở ngại, nổi bật trong số đó là hiện trạng về hạ tầng.

Thành phố Hồ Chí Minh vừa là thị trường tiêu thụ lớn, vừa là trung tâm phân phối lớn nhất nước.

Tuy nhiên, việc chưa có các trung tâm logistics đáp ứng đầy đủ tiêu chí, về lâu dài có thể gây nên những ách tắc nhất định cho sự lưu thông logistics.

Cần nhiều cơ chế

Ông Nguyễn Thanh Tuấn, Trưởng bộ phận nghiên cứu Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI), cho rằng logistics vùng Đông Nam Bộ vẫn còn nhiều tồn đọng, hạn chế, đòi hỏi phải có sự khắc phục kịp thời.

Qua khảo sát, thống kê có thể thấy dịch vụ logistics hiện nay phát triển có phần chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vùng, chi phí logistics còn cao và sự liên kết giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa đạt hiệu quả như mong đợi.

Hạ tầng kho bãi ngành công nghiệp logistics Việt Nam có những bước thay đổi nhanh trong thời gian qua song chưa đạt hiệu quả như mong đợi.

Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng chỉ ra các điểm nghẽn phát triển vùng.

Đó là mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng còn thiếu, yếu, chưa đồng bộ; nguồn nhân lực logistics chất lượng cao chưa đáp ứng được nhu cầu; chi phí logistics còn cao; sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất-xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics hiệu quả thấp; chưa hình thành được các trung tâm logistics quy mô lớn, có vai trò trung chuyển hàng hóa đa phương thức của vùng.

Theo ông Huỳnh Văn Cường, nhằm giải quyết các vướng mắc này, thời gian qua, từng địa phương đã đề xuất và triển khai nhiều phương án, chiến lược với mục tiêu cải thiện hơn hoạt động logistics, tăng cường kết nối logistics vùng.

Tuy nhiên, việc kết nối hạ tầng vùng là một bài toán khó, đòi hỏi các địa phương phải cùng chung tay, phát huy tiềm lực của địa phương mình cùng với đó là đóng góp các sáng kiến nhằm hoàn thiện, thúc đẩy hoạt động logistics vùng thuận lợi nhất.

Đồng tình quan điểm này, Trưởng bộ phận nghiên cứu Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam Nguyễn Thanh Tuấn đề xuất: "Cần tính đến lợi ích chung của cả vùng hơn là lợi ích của địa phương. Có chính sách phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; trong đó, tập trung phát triển mạng lưới đường bộ cao tốc, đường vành đai Thành phố Hồ Chí Minh."

Ông Nguyễn Thanh Tuấn cũng gợi mở một số hàm ý về chính sách nhằm phát triển ngành logistics của khu vực Đông Nam Bộ. Đó là cơ quan quản lý nhà nước ban hành cơ chế huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân, đất đai... để có ngân sách phát triển hạ tầng và có các chính sách thúc đẩy việc liên kết vùng, một cơ chế đặc biệt và sự phối hợp giữa các tỉnh.

Trong khi đó, doanh nghiệp cần tăng cường ứng dụng công nghệ để số hoá dữ liệu hành trình vận chuyển, áp dụng tự động hóa trong lĩnh vực logistics từ khâu vận chuyển, dịch vụ cảng, kho bãi, vận tải...

Hiện đại hóa phương thức quản lý và vận hành, sử dụng hệ thống phần mềm, nền tảng tối ưu hóa logistics nhằm cắt giảm chi phí logistics, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ.

Tại hội thảo, các đại biểu cũng trao đổi và đề xuất nghiên cứu các cơ chế chính sách đồng bộ, đủ mạnh và khả thi, nhằm đa dạng hóa các hình thức đầu tư để thúc đẩy phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, đặc biệt là hình thành các định chế tài chính mới.

Theo công bố của Sách trắng Logistics Việt Nam 2018, hiện, ngành dịch vụ logistics Việt Nam có trên 3.000 doanh nghiệp hoạt động chuyên nghiệp; trong đó, 54% tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu về nguồn nhân sự logistics rất lớn. Các đại biểu phân tích, dự báo đến năm 2030, nhu cầu nhân lực chuyên nghiệp cho toàn ngành là 200.000 nhân sự, trong khi đó khả năng đáp ứng nhu cầu chỉ đạt khoảng 10%.

Do đó, doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao công tác đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực logistics.

Năm 2022, thị trường logistics toàn cầu đã phục hồi và bước vào giai đoạn mới với kỳ vọng mang lại tăng trưởng đáng kể cho cả năm.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng lưu ý, với tình hình biến động của thế giới ở thời điểm hiện tại cũng như trong thời gian tới, doanh nghiệp logistics cần chủ động hơn, chuẩn bị những chiến lược tốt hơn nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường; đồng thời, duy trì bền vững hoạt động kinh doanh.

Theo TTXVN

Bình luận