Tiềm năng mới nào cho ngành logistics sau đại dịch?

26/04/2022

Đến năm 2022 hiện nay, dịch bệnh vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất lợi đến các chuỗi cung ứng và hoạt động logistics thế giới nói chung và trong nước nói riêng.

Đây là một thách thức lớn đồng thời cũng là cơ hội để doanh nghiệp logistics bứt phá.

Nội dung

Ngành logistics và tiềm năng lớn

Việt Nam có lợi thế nằm ở trung tâm khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trên tuyến hàng hải quốc tế, thị trường logistics tại Việt Nam được cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế đánh giá đầy tiềm năng để phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi, tăng trưởng trở lại.

Trên thực tế, ngành dịch vụ logistics Việt Nam đã có những bước phát triển khá nhanh, tăng trưởng bình quân hàng năm từ 12-15%, và hiện có hơn 4.000 doanh nghiệp logistics hoạt động chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ logistics quốc tế. 

Cả nước có 69 trung tâm logistics quy mô lớn và vừa, phân bổ tập trung ở một số khu công nghiệp. Thời gian qua, các trung tâ này tiếp tục có sự chuyển đổi từ trung tâm logisitcs truyền thống sang trung tâm logistics thế hệ mới, áp dụng công nghệ 4.0.

Theo các chuyên gia, doanh nghiệp logistics Việt Nam đã có kinh nghiệm thích nghi và vượt qua năm thứ hai khó khăn nhất của dịch Covid-19, do đó thời gian tới sẽ là lúc logisitcs bứt phá và phát triển mạnh mẽ.

Ngành logistics Việt Nam và tiềm năng lớn

Theo đó, ngành logistics Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Thậm chí, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, lĩnh vực logistics Việt Nam đang đứng trước cơ hội ‘vàng” sau đại dịch Covid-19.

Cụ thể, việc phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp phụ trợ, hoạt động thương mại điện tử gia tăng sẽ khiến logistics trở thành một lĩnh vực thu hút đầu tư và có nhiều cơ hội phát triển.

Các Hiệp định thương mại tự dp (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới có hiệu lực đã và sẽ giúp Việt Nam hưởng lợi từ việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa.

Ngoài ra, cơ hội lớn cho các doanh nghiệp logistics cũng đang rộng mở khi kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng cao bất chấp những tác động tiêu cực của đại dịch, đạt trên 688 tỷ USD trong năm 2021 và sẽ cán mốc 1.000 tỷ USD tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong thời gian không xa.

4 hạn chế của ngành logistics Việt Nam hiện nay

Mặc dù có sự phát triển nhanh và tăng trưởng bình quân hàng năm ở mức khá, tuy nhiên phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, ngành dịch vụ logistics vẫn còn nhiều hạn chế.

1. Logistics Việt Nam chưa phát triển tương xứng với tiềm năng

Hạn chế đầu tiên phải nói đến của ngành logistics Việt Nam đó chính là chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.

Tại phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam 2021 do Bộ Công Thương tổ chức cuối năm 2021, bà Carolyn Turk - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới Việt Nam chỉ rõ: Trong năm 2021 dưới tác động của đại dịch Covid-19, chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam còn khá cao. 

Mặc dù tiềm năng và cơ hội của ngành logistics tại Việt Nam là rất lớn nhưng vẫn chưa được khai thác, phát triển để có thể tương xứng với tiềm năng đó. Hạn chế thứ 2 là một trong những lý do khiến cho ngành logistics của Việt Nam phát triển chứ tương xứng.

2. Thiếu sự liên kết chặt chẽ giữ các doanh nghiệp

Thiếu sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các doanh nghiệp dịch vụ logistics với nhau và với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu. 

Điều này khiến cho ngành logistics của Việt Nam phát triển còn rời rạc, nhỏ lẻ. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu còn loay hoay, gặp khó khăn trong hoạt động logistics, chuỗi cung ứng.

Các chuyên gia quan ngại, doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam chiếm tỷ trọng khoảng 95%, nhưng đa số là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cung cấp các dịch vụ chưa có giá trị gia tăng cao. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp dịch vụ logistics chưa chặt chẽ, kém hiệu quả.

3. Quy mô và tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp logistics còn yếu, năng lực cạnh tranh thấp

Quy mô và tiềm lực về tài chính của các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn yếu, năng lực cạnh tranh còn thấp điều này khiến cho ngành logistics Việt Nam chưa thể tiến xa hơn ra thị trường nước ngoài.

Đặc biệt, Việt Nam vẫn rất thiếu các trung tâm logistics hiện đại, quy mô lớn, nhất là các trung tâm logistics để sơ chế, chế biến, bảo quản nhằm giảm thiểu hư hỏng, bảo đảm điều kiện để xuất khẩu. Điều này có thể thấy rõ trong thời gian dịch bệnh diễn biến phức tạp, hoạt động vận tải giao thông trên toàn cầu bị ảnh hưởng, chi phí logistics bị đẩy lên, ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước.

4. Nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics thiếu cả về số lượng và chất lượng

Thực tế tại Việt Nam, ngành logistics là một ngành mới nổi, các trường đại học mới mắt đầu hình thành nên chuyên ngành logistics. Chính vì vậy, nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics thiếu cả về số lượng, chất lượng và tính chuyên nghiệp.

Từ những hạn chế trên, các doanh nghiệp logistics Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với việc cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài.

Nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics thiếu cả về số lượng và chất lượng

Cùng đi tìm giải pháp

Để tạo nên sự đột phá cho logistics Việt Nam trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, còn rất nhiều việc phải làm như: tập trung phát triển kết cấu hạ tầng logistics, ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics…

Trong đó, việc phát triển hạ tầng giao thông vận tải nói chung và đường biển nói riêng là yêu cầu cấp bách bảo đảm duy trì chuỗi cung ứng, lưu thông hàng hóa, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.

Việc này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương, để khơi thông những điểm nghẽn, hình thành các trung tâm logistics có trình độ tự động hóa, hiện đại hóa lớn, tham gia dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế, dịch vụ logistics xuyên biên giới.

Các trung tâm logistics phải được kết nối với các phương tiện vận tải theo hướng đa phương thức và với cảng biển bằng hệ thống đường sắt hiện đại theo mô hình cảng biển - đường sắt - các trung tâm logistics - đường ôtô - khách hàng. Đồng thời, sớm đưa vào vận hành các trung tâm logistics trên các hành lang kinh tế, đặc biệt ưu tiên các hành lang kinh tế qua các cửa khẩu quốc tế với Trung Quốc, Lào, Campuchia.

Theo Báo Công Thương

Bình luận